Tỷ phú già sắp qua đời

04:18 |
Khi bệnh của ông tỷ phú già không còn hy vọng chạy chữa, bác sĩ gọi cô vợ trẻ đến để thông báo.


- Bà cần chuẩn bị tinh thần đón nhận khả năng xấu nhất có thể xảy ra.
Cô vợ vẻ mặt đăm chiêu, đáp:
- Vâng, tôi hiểu. Những đứa con của ông ấy đòi thừa kế phần lớn tài sản.
Vị bác sĩ thông cảm:
- Tôi hiểu hoàn cảnh của bà.
- Chính vì vậy tôi đã xác định khả năng xấu nhất, giành được một nửa cũng là may rồi.
Đọc thêm…

Lấy chồng giàu, nhiều khi cơm chan nước mắt!

04:11 |
Nhiều cô gái trẻ hay nói thế này “thà khóc trong BMW còn hơn cười sau xe đạp”, chị biết các cô ấy chưa từng trải qua cảnh “khóc trong BMW” nên mới nghĩ thế, chứ nếu ngày nào mở mắt ra cũng thấy cuộc đời một màu u ám, bế tắc, nuốt nước mắt vào lòng thì hẳn các cô cũng biết sợ như chị thôi…

hị ngẫm thấy cảnh đời ai cũng có những cái khổ của riêng mình, chỉ có điều người ta vì lý do nào đó mà im lặng hoặc cố gắng mà sống, mà vượt qua, bởi có nói hay không nói thì những vẫn đề khó khăn mà họ gặp phải cũng chẳng ai có thể giúp mà giải quyết được. Nhưng chị vẫn sẽ nói những tâm sự đang đè nặng trong lòng chị, hi vọng người con gái nào đang mơ tưởng một cuộc sống giàu sang, đổi đời nhờ lấy chồng giàu thì hãy suy nghĩ lại, bởi “những chiếc bánh màu hồng ngọt ngào đôi khi chính là miếng bả chuột”.
Ngày còn trẻ, chị nức tiếng gần xa về nhan sắc hơn người của mình. Chị đã từng đi thi một vài cuộc thi về nhan sắc và đạt giải cao nhất năm chị còn đang học cấp ba. Kể từ hồi ấy, nhiều người biết chị nhiều hơn và cám dỗ cũng theo chị từ đó.
Không ít thiếu gia, và đại gia vây quanh săn đón, chiều chuộng, ngỏ ý làm quen làm thân với chị. Từ một người con gái có gia cảnh rất bình thường, nhưng nhờ có nhan sắc mà sáng xe đưa, chiều xe đón, cuộc đời cứ như trải chiếu hoa, chị là niềm hãnh diện của gia đình khi đó. Tuy vậy, chị vẫn không để ý đến ai bởi chị không thể trói đời mình nơi tỉnh lẻ.
Học xong cấp ba, chị thi đỗ vào một trường đại học nhàng nhàng, nhưng nhờ tiếng tăm của cuộc thi nhan sắc và vẻ ngoài của mình, chị khá nổi tiếng trong trường với tư cách là một hoa khôi. Một vài tờ báo giấy đưa tin, đưa hình tung hô, chị càng thêm nổi tiếng và ngày càng có nhiều lời mời gọi tham gia đóng phim, làm mẫu…chị nhận lời vài show với ý niệm tham gia cho vui dù chị không thích mấy công việc liên quan đến nghệ thuật cho lắm bởi chị biết mình không có khả năng.
Trong một lần đi dự tiệc đóng máy bộ phim đầu tay mà chị tham gia, chị đã gặp V, một thiếu gia đất mỏ nổi tiếng và anh cũng chính là chồng chị bây giờ.
V chiều chuộng và chân tình với chị hơn những người đàn ông khác rất nhiều. Những người đàn ông tán tỉnh tôi một thời gian thấy không có kết quả thì đều rút lui và nhanh chóng tìm cho mình bến đỗ mới. Riêng V thì khác, anh tỏ ra là một người đàn ông tâm lý, chân thành và rất quan tâm chị về cả vật chất lẫn tinh thần. chị suy nghĩ nhiều đêm, biết mình cũng không có tài cán gì ngoài nhan sắc, "mà đời con gái có thì thôi" – mẹ chị thường bảo thế, nên khi anh ngỏ lời đưa chị về ra mắt để tính chuyện hôn nhân thì chị không hề do dự.
Được diện kiến với mẹ chồng tương lai mới thấy bà là một người đàn bà sắc xảo đến rợn người. Bà rất vồn vã, nhã nhặn khi gặp chị lần đầu, tôi cứ nghĩ rằng bà đã ưng chị nên chị cũng thấy thoải mái khi bước chân vào biệt thự nhà bà. Ai ngờ, ngoài mặt bà nói cười với chị còn trong lòng thì ngăn cản dữ dội.
Sau cuộc gặp ấy mấy hôm thì bà chủ động gọi chị đến nhà và kêu không được nói cho V biết. Vừa ngồi xuống bà đã nhìn tôi sắc lẹm khiến chị sởn gai ốc. Chẳng nói chẳng rằng, bà vứt một quyển sổ lên bàn rồi bảo “Cháu xem đi, cái này là cái gì?”. Chị cầm cuốn sổ lên thì thấy tên mình ngoài sổ, mở ra xem thì thấy đó là quyển sổ khám thai định kỳ, phiếu và ảnh siêu âm thai, rồi ngày tháng khám, sau đó thì đình chỉ thai… chị ngơ ngác hỏi bà “Đây là cái gì vậy bác?” thì bà rít lên từng câu sắc lạnh “Lại còn cái gì nữa, không phải tác phẩm của cô thì còn của ai? Tốt nhất là cô nên im miệng và tránh xa thằng V nhà tôi ra, đừng để tôi đưa cái này cho mọi người thì cô không con đường mà lấy chồng đâu!”.
Chị thất sắc, không thể ngờ nổi sao lại có chuyện phi lý đến vậy đổ ập lên đầu? Ai đã vu oan giá hoạ cho chị? Mãi sau này tôi mới biết, vì mẹ chồng chị không ưng cái gia cảnh nhà chị nên bày ra cái trò giá hoạ này để chị “chột” mà rút lui. Thật là một người đàn bà đáng sợ!
Chị không làm gì sai nên không phải sợ, chị nói thẳng với V chuyện đó và V hoàn toàn tin tưởng chị, có lẽ anh cũng biết mẹ mình là người thế nào? Mẹ chồng chị là người có thể "hô phong hoán vũ", đổi trắng thay đen, bà chỉ có một nhược điểm duy nhất là yêu V hơn bất cứ thứ gì trên đời, vì thế khi không thể ngăn cản quyết định của con trai duy nhất, bà đã chiều ý để V cưới chị về làm dâu nhà bà.
Cuộc vui "ngắn chẳng tày gang", sau khi kết thúc tuần trăng mật thì chồng chị bận tối ngày với bao công việc nên ít có thời gian về nhà. Vậy nên, anh cũng không biết mẹ anh đã hành hạ chị thế nào...
Bà gọi chị xuống nhà rồi bắt chị kí vào một lá đơn cam kết nếu ly hôn sẽ ra đi tay trắng, không đòi hỏi quyền lợi hay tài sản gì của nhà chồng. chị thấy khó chịu với thái độ của bà nên bảo “đợi anh V về bọn con nói chuyện đã” thì bà chẳng nói chẳng rằng cho chị ngay một cái bạt tai và rít lên “Mày chỉ là loại hữu sắc vô hương, mày nghĩ những loại như mày bước chân vào nhà giàu để làm gì không ai biết à? Xin lỗi mày đi con, có biết tại sao người ta lại giàu không? Là đầu người ta có sỏi đấy con ạ, không phải để trên đầu trang trí đâu! Nếu mày không ký, thì chỉ thiệt cho mày thôi!”.
Nhìn vẻ quyết liệt và cái nhếch miệng đầy khinh thị con dâu, chị không còn giữ được bình tĩnh nữa, cầm lấy ngay cái bút ký vào đám giấy tờ bà đưa rồi đi lên phòng. Bà có vẻ hể hả lắm “Thế ngay từ đầu có phải nhanh không nào? Mẹ làm thế cũng vì vợ chồng chúng mày cả, sau này mày với nó không hoà thuận, mày bỏ nó thì có phải thiệt thòi cho thằng V không?”. Chị nhìn bà mà chẳng buồn nói câu nào nữa, vì nói cũng không lại với cái miệng ghê gớm của bà.
Bố mẹ chị từ ngày con gái đi lấy chồng chỉ dám qua thăm con một lần, chung quy cũng vì cái thái độ khinh người của mẹ chồng chị khiến bố mẹ đẻ tôi cảm thấy bị xúc phạm, dù thương yêu con gái nhưng ông bà nhất định không thèm đến chơi. Chị nghĩ đến cái cảnh mình mà buồn, nhưng bản thân mình làm dâu mà còn không muốn ở thì hỏi sao bố mẹ mình không muốn đến!
Rồi chuyện đến ba năm rồi mà chị vẫn chưa đậu thai cũng khiến chị khủng hoảng tinh thần. Hai vợ chồng đã đi khám nhiều nơi và biết rõ nguyên nhân là do chồng chị vô sinh thứ phát, không thể có con. Nhưng mẹ chồng chị khăng khăng cho rằng vì chị là loại “gái độc không con” nên lấy cớ để yêu cầu chị làm đơn ly hôn. Khi chồng chị lên tiếng thì bà lại cho rằng “Nhà này ba bảy đời ai mà chả có con đàn cháu đống, hà cớ gì mà lại vô sinh được? Ấy là do vợ chồng không hợp cũng số, căn quả… bỏ nhau lấy đứa khác lại đẻ ầm ầm ra…” và tìm mọi cách “cổ vũ” cho vợ chồng chị ly hôn.
Hôm rồi, tự dưng mấy cô giúp việc nghỉ làm hết. chị hỏi lý do tại sao thì bà thẳng thừng "Lấy cô về làm cái máy đẻ mà còn không biết đẻ thì phải biết mà lau dọn nhà cửa chứ còn kêu ca gì?”. Nhà chỉ có hai mẹ con, đang ăn cơm mà chị phải nuốt nước mắt vào lòng.
Từ ngày lấy chồng đại gia, mang tiếng sống trong biệt thự, đi xế hộp tiền tỷ, quần áo xài đồ hiệu nhưng chị chưa bao giờ có một phút thảnh thơi về tâm hồn đúng nghĩa. Nhiều khi chị nghĩ mình còn trẻ, hay là mình ly hôn cho xong? Mình vẫn còn cơ hội để làm lại từ đầu mà, nhưng nghĩ đến chồng chị lại chùng lại. Vì anh thực ra vẫn yêu chị, và nếu chị ra đi với hai bàn tay trắng, trở về khởi điểm lúc ban đầu, liệu chị có thể tìm được người yêu chị thật lòng, một gia đình tốt hay là lại rơi vào một nhà giàu phiên bản khác? Ly hôn chị sẽ bắt đầu lại từ đâu? Còn bố mẹ chị nữa họ hãnh diện về chị biết bao nhiêu? Nghĩ hoài nghĩ mãi mà chả thấy đâu lối thoát, tâm trạng ngày càng nặng nề, bí bách, chị chỉ còn biết giãi bày cho những ai quan tâm đến cuộc sống sau bức rèm nhung của “đại gia, kiều nữ” mà người ta thường nói, cho họ thấm cái cảnh làm dâu nhà giàu nó "sướng" thế nào!
Nhiều cô gái trẻ hay nói thế này “ thà khóc trong BMW còn hơn cười sau xe đạp”, chị biết các cô ấy chưa từng trải qua cảnh “khóc trong BMW” nên mới nghĩ thế, chứ nếu ngày nào mở mắt ra cũng thấy cuộc đời một màu u ám, bế tắc, nuốt nước mắt vào lòng thì hẳn các cô cũng biết sợ như chị thôi…
Đọc thêm…

Trình bày về các hủ tục tập quán không tốt trong ngày lễ tết ở Việt Nam

04:02 |
Đề bài: Theo anh (chị), hủ tục cần bài trừ nhất trong các ngày lễ, ngày tết ở Việt Nam là gì ? Trình bày hiểu biết và quan điếm của anh (chị) về vấn đề này.


 
Tết đến xuân sang là dịp thường diễn ra rất nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh như chúc Tết, mừng xuân, lễ hội truyền thống của các địa phương, các đình chùa nổi tiếng trong cả nước như hội chùa Hương, hội chùa Thầy, hội Gióng, hội Lim, hội phủ Giầy, lễ xuống đồng, lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương… Nhân dân nô nức tham gia để tiếp nhận luồng sinh khí dồi dào, vui đón một năm mới an lành, hạnh phúc.
 
Tết là dịp chủ yếu để những người thân trong gia đình, họ hàng sum họp, hàn huyên tâm sự, chia sẻ vui buồn, thành công hay thất bại trong năm vừa qua và trao đổi những dự định học hành, làm ăn trong năm tới.
 
Tuy vậy, bên cạnh những phong tục tốt đẹp cần gìn giữ và phát huy như đã nêu trên thì Tết cũng là dịp thuận tiện cho nhiều hủ tục, tệ nạn xã hội như thói tiêu xài phung phí, mê tín dị đoan, cờ bạc… phát triển.

Từ xưa, dân gian đã có câu : Khó quanh năm, giàu ba ngày Tết. Có nghĩa là dù quanh năm sống trong nghèo túng thì ba ngày Tết mọi người cũng phải cố sắm sửa sao cho tươm tất để tổ tiên, ông bà khỏi tủi và để đỡ mất mặt với hàng xóm láng giềng. Nhưng điều đó vẫn nằm trong mức độ khả năng kinh tế cho phép, chứ không đồng nghĩa với sự chi tiêu vung tay quá trán mà ngày nay nhiều người, nhiều gia đình mắc phải. Tết hoàn toàn không phải là dịp khoe giàu khoe sang, phô trương thanh thế để lòe thiên hạ. Thế nhưng hiện nay không ít người hiểu sai lệch về ý nghĩa của Tết. Họ đua nhau mua sắm, chất đầy nhà thức ăn, thức uống, cố tìm cho được những gì là quý, là lạ, bất chấp giá cả, chỉ cần tỏ ra ta đây là dân thừa tiền, sành điệu. Họ dám bỏ ra vài chục triệu để mua một cây mai hay một cây cảnh mà họ gọi là “hàng độc” để trưng chơi trong ba ngày Tết. Chi tiêu kiểu đó quả là xa hoa phung phí, trong khi xung quanh còn rất nhiều gia đình nghèo khổ, Tết đến chỉ mong lo được cho đàn con vài cái bánh tét, bánh chưng, vài bộ quần áo mới. Trong cảnh nghèo, nhiều gia đình chỉ có chén trà thay rượu khi tiếp khách và đồ nhắm là những câu chuyện, những tràng cười vui vẻ.
Đọc thêm…

Văn 5 tả cơn mưa rào mùa hạ (mùa hè)

03:59 |
Đề bài: Trời đang nắng bỗng đổ cơn mưa rào mùa hạ bất chợt. Em hãy viết bài văn tả cơn mưa rào bất chợt đó cho các bạn cùng nghe.


 
Mẹ gọi với vào trong nhà :” Hương ơi, cất quần áo đi con! Sắp mưa rồi!” Em vội vàng chạy ra sân khi những đám mây đen đang xô đẩy nhau phủ kín cả nền trời. Và cơn mưa đầu hạ ập đến, bắt đầu từ những tiếng lộp bộp mỗi lúc một dày thêm trên mái hiên trước nhà. Những cơn mưa rào mùa hạ lúc nào cũng vội vàng như thế.
 
Nếu không có những đám mây kia, mặt trời chắc sẽ biến cả mặt đất thành giàn hỏa thiêu bởi cái nắng gay gắt, oi bức của nó. Không một cành lá nào chịu đung đưa mà chỉ nằm ủ rũ,im lìm hứng chịu cái nóng.
 
Mưa mỗi lúc thêm nặng hạt và gió bắt đầu thổi mạnh.  Nhìn từ xa mưa như tấm màn trắng đục khổng lồ phủ kín cả đất trời. Trên đường vẫn còn lác đác  vài bong người đang gồng mình lên, cố xuyên qua  màn nước.  Những tia chớp xé ngang bầu trời không quên kéo theo tiếng sấm ầm ầm, rền rĩ .

 
Rặng cây phi lao trước nhà bị vần vũ trong mưa gió. Bộ dạng ủ rũ lúc trước giờ đã biến mất, chúng như đang dang tay ra đón những tia nước mưa xiên chéo , nhờ mưa bóc đi những lớp vỏ cây đã khô cằn. Mưa vẫn xối xả trút xuống mái hiên ầm ầm  như trống dội. Nhìn lũ bạn í ới gọi nhau ra tắm mưa thích thú biết mấy nhưng  em còn e dè ánh mắt của mẹ.  Bất giác giơ tay ra hứng  những giọt nước mưa ran rát nhưng mát lạnh có cái gì tươi mới dường như cũng trỗi dậy trong em.
Đọc thêm…

Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn

03:54 |
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn trong chương trình văn học lớp 7.
 
Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).
 
Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn tiến theo trình tự thời gian: Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữ đê. Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình. Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của những kẻ cầm quyền với nỗi cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối cảm thương sâu sắc của mình trước những đau thương, hoạn nạn của đồng bào.
 
Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng hiểm nguy của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.
 
Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lo lắng, tất bật… tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương: … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm.
 
Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh: Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cù củng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình:
 
Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu ?
phat bieu cam nghi ve truyen song chet mac bay
Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy củng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viên quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mỉa mai, châm biếm và phẫn uất.
 
Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc “phụ mẫu chi dân” cũng đích thân ra “chỉ đạo” việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấm láp, ra sức cứu đê mà là ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ: đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy… Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy trì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đôi lập tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.
 
Trên cái nền là cảnh trăm họ lo toan chống giặc nước, chân dung “quan phụ mẫu” hiện lên rõ ràng qua những nét vẽ sinh động về hình dáng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lí nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và của cải của hàng nghìn con người đang bị đe dọa từng giờ từng phút, vậy mà “quan phụ mẫu” vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.
 
Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh: … mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít… trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê… Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thảm cảnh của dân chúng; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.
 
Trong khi thảm họa vỡ đê khủng khiếp đang đập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi trong khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường: Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bài. Mặc cho dân tình nháo nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổ tôm. Cung cách ấy tố cáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô nhân đạo của hắn.
 
Nếu ở trên mặt đê, không khí sôi động, nhốn nháo, hối hả với công việc cứu đê thì trong đình không khí cũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ: Bát sách ! Ăn; Thất văn,… Phỗng, lúc mau, lúc khoan dung, êm ái, khi cười, khỉ nói vui vẻ, dịu dàng… Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp .
 
Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại dưới quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người? Phải! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai nịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng… Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp để lấy lòng quan lớn. Sau khi quan xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh rung đùi, vuốt râu mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Có người bẩm báo là có khi đê vỡ, hắn trả lời thật phũ phàng: Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài.
Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ.
 
Tính cách của tên quan phủ được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu, về cử chỉ: Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc… Về lời nói: Tiếng thầy đề hỏi: Dạ bẩm bốc tiếng quan lớn truyền: ừ. Khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi ! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: ù Ị Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày !
 
Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên: Tiếng kêu vang trời dậy đất ngoài đê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: Bẩm, có khi đê vỡ tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt: Mặc kệ ! Hình ảnh người nhà quê, mình mẩy lấm láp, áo quần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra hơi báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi… thời ông cách cổ chúng mày.
 
Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ đê, tác giả thể hiện nỗi xót thương và đồng cảm với nỗi khổ của dân chúng:
 
Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!…
 
Thiên truyện khép lại bằng cảnh đê vỡ: Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi run miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !
 
Ở đoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm để tả cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng: Cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.
 
Về nghệ thuật, trong toàn bộ tác phẩm, bên cạnh phép tương phản thì phép tăng cấp đã được nhà văn sử dụng một cách tài tình, có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa của tác phẩm và khắc hoạ rõ nét tính cách của nhân vật chính là tên “quan phụ mẫu”.
 
Phép tăng cấp thể hiện rõ trong việc miêu tả cảnh hộ đê dưới trời mưa mỗi lúc một dồn dập: Nước sông Nhị Hà lên to quá… Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống… Dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên giữa tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau sang hộ đê mỗi lúc một ầm ĩ, náo động.
 
Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh bài tổ tôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bài bạc mà bộ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành. Đến khi có người dân phu vào báo tin đê vỡ mà vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo to: ù ! Thông tôm, chi chi nảy ! thì độ say mê cờ bạc quả đã làm cho “quan lớn” mất hết tính người. Nói theo lời bình của nhà văn là loại lòng lang dạ thú.
 
Nhờ khéo léo kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
Đọc thêm…

Phương Pháp Học Văn

04:29 |
2 Cách có thể áp dụng cho mọi đối tượng :



Cách 1 : Bỏ qua những cách học cũ, người ta nói 1 lần viết bằng vạn kiếp đọc. đừng ngại viết nhé ! nhưng viết không thì cũng không được mà bạn cần phải đọc sơ qua một cái nội dung.
Thì sau khi đọc xong, bạn suy nghĩ xem nó đọng lại trong đầu bạn được những thứ gì ? cứ ghi ra giấy, ghi ra ghi ra, rồi ! nếu cảm thấy vẫn chưa đủ ý thì đọc lại và ghi bổ sung nữa, bước tiếp theo là sắp xếp các ý lại theo trình tự đàng hoàng nha, rồi bạn có thể lập thành một chuỗi sơ đồ hoặc phương trình hóa học tương tự chẳng hạn.
Lợi ích : Khi ôn lại bạn không mất nhiều thời gian vì cơ bản ý chính bạn đã nắm được hết rồi , mà ý chính đã nắm được thì chẳng lẽ không tóm tắt được nội dung bài đó ra sao đúng không ?
Cách 2 : ( Hư cấu tý ) : Học Văn bằng cách vẽ tranh :
Hãy tưởng tượng bạn đang học bài Sóng, Tây Tiến hoặc Lor-ca xem , à lấy ví dụ Lorca nhé !! Biểu tượng cảm xúc grin bạn đọc qua bạn sẽ thấy những gì ?
Một cái yên ngựa -> một con ngựa
Một anh chàng cởi ngựa cùng một cây đàn ghita
Vài ba bụi cỏ dại cùng với mấy tên phát xít phăng-cô chẳng hạn.
rồi ok ! sau khi bạn đã được giáo viên giảng sơ qua về nội dung của bài Lorca, về nhà, nhìn làm gì cho mệt ( tuy nhiên phải chắc chắn bạn đã nắm kỹ nội dung ), bắt tay vào việc vẽ, bạn cũng không cần vẽ đẹp đâu nhưng vẽ làm sao để nhìn vào đó bạn hiểu được à... ông đó là Lor-ca, ổng đang cởi ngựa trên tay cầm một cây đàn.
Mà ý nghĩa là : Một hình ảnh vĩ đại với mong muốn, khát khao cách tân nghệ thuật, phía sau đang bị bọn phát xít Phăng cô đuổi theo nhưng Lor-ca vẫn chậm rãi vì đã biết trước được số phân, ven đường những bụi cỏ dại đang từ từ mộc lên khi tiếng đàn Li la li la li la của Lorca vang lên....
thì đó, cách học của mình !!
GoodLuck ! Vẫn còn nhiều cách nữa.... nhưng tạm thời các bạn làm như thế này xem sao nhé !!
Đọc thêm…

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH

04:27 |
Những Lưu ý khi làm bài :
- Thống nhất một kiểu xưng hô : Bác là Bác, Người là Người, Hồ Chủ Tịch là Hồ Chủ Tịch, tránh việc lặp từ hoặc sử dụng nhiều ngôi xưng làm bài viết trở nên thô và không hay nhé.
- Nhất định phải nhớ các chi tiết : Hai bản Nhân Quyền Và Dân Quyền của Pháp và Mỹ.



I. Tác Giả :
Hồ Chí Minh không những là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà người còn là một nhà văn, nhà thơ đại tài với nhiều phong cách sáng tác đa dạng.
Trong sự nghiệp cầm bút, người đã cho ra đời rất nhiều đứa con tinh thần của mình, và tất cả đã tô một nét son mới cho nền VĂN HỌC VIỆT NAM. đặc biệt không thể bỏ qua là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà người đọc ở Quảng Trường Ba Đình 2-9-1945 tuyên bố khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ( sau này là CHXHCN Việt Nam )
II Tác Phẩm :
- Tuyên Ngôn Độc Lập là một bản văn kiện lịch sử trọng đại khai sinh nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam , là kết tinh của những chủ nghĩa yêu nước, khát vọng tự do,yêu hòa bình và tự chủ,ngày 2-9-1945 Hồ Chủ tịch đã đọc nó trước hàng vạn nhân dân Thủ Đô, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
III Phân Tích Sau Vào Tác Phẩm :
1. khẳng định : " Quyền độc lập,tự do của nhân dân Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở "
- Đây là một khẳng định hợp tình hợp lý thông qua hai bản Tuyên Ngôn :
+ " đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,trong đó có quyền được sống,quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc " ( Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ 1776 )
+ Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và pải luôn luôn được tư do và bình đẳng về quyền lợi " ( Tuyên Ngôn Nhân Quyền Và Nhân Quyền của CM Pháp 1791 )
=> từ đó suy ra dân tộc Việt Nam được hưởng quyền độc lập,tự do là hoàn toàn có cơ sở và sự đưa ra 2 bản tuyên ngôn trên là nhằm tăng tính thuyết phục trong lòng người đọc, một quyền mưu cầu mà không ai có thể chối bỏ được
=> đây cũng được xem là một chiêu thức : " gậy ông đập lưng ông " nhắc nhở Pháp rằng : chúng đang làm ngược lại với những gì mà tổ tiên chúng đã cố gắng làm được và nếu đi ngược lại xu thế của tổ tiên thì không có gì đáng xấu hổ hơn nữa.
=> Không phải chỉ riêng Việt Nam mà tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều được hưởng các quyền lợi thiêng liêng ấy và chỉ những kẻ đồ tể mới mong muốn đi ngược lại với thực trạng hiển nhiên mà không ai mong muốn làm.
2. Hoàn cảnh lịch sử : " Cách mạng tháng tám thành công, nước VNDCCH ra đời " và sự thật đã thành một ước độc lập,tự do " Đó là một sự thật không ai chối bỏ được :
- Trước khi người khẳng định lại các quyền thiêng liêng ấy, người đã mạnh mẽ vạch trần rõ tội ác của TDP đã làm trên đất nước ta và những biệt danh mà chúng đang cố ẩn náu đằng sau để thực hiện những âm mưu bất chính
+ Tắm dân nhân trong biển máu
+ cướp bóc tài nguyên đến môi trường
+ về kinh tế : cướp không hầm mỏ, nguyên liệu,độc quyền in giấy bạc, bốc lột nhân dân một cách tàn nhẫn "
+ mang tiếng là bảo hộ nhưng thực tế trong vòng 5 năm ( 1940-1945 ) chúng đã bán nước ta cho Nhật hai lần.
+ Pháp và Nhật gây ra nạn đói năm ất dậu ( 1945 ) làm cho hơn hai triệu đồng bảo chết đói
-> chỉ với vài ba những dẫn chứng,thực trạng. người đã nêu ra tội ác tày trời của Pháp và xóa luôn những biệt tài : Bảo Hộ , Đồng Minh, Khai Hóa của chúng trên mảnh đất hình chữ S này
- Tiếp theo, Người nói lên lòng tự hào mãnh lệt về sự thắng lợi của dân tộc, cụ thể được tóm tắt bằng cụm từ : " Pháp chạy,Nhật Hàng, Vua Bảo Đại thoái vị "
Giặc ngoài đã rút, đã đầu hàng.. Đất nước đã thoát ra khỏi chế độ phong kiến suốt hàng ngàn năm ở đất nước ta và mở ra một chương mới cho dân tộc Việt Nam.
=> Qua đây, ta có thể dễ dàng nhận thấy chất VĂN của người, nó đanh thép, nó sắt bén và dứt khoát cụ thể qua một tuyên bố đầy hùng hồn : " Tuyên bố thoát li hẳn khỏi quan hệ với TDP,xóa bỏ hết những hiệp ước mà PHáp đã kí kết với Việt am, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước việt nam"
Cách nói : " xóa bỏ " " xóa bỏ hết " đã thể hiện cho sự dứt khoát ấy.
3. Thông qua bản Tuyên Ngôn Độc Lập, người đọc đã rút ra được.
- Một tinh thần đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam, thà hi sinh đấu tranh chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
- Là một lời răng đe nếu Pháp vẫn còn ý định muốn quay lại Việt Nam một lần nữa, đồng thời cũng là một sự dè chừng cho bất cứ một cường quốc nào cũng phải suy nghĩ lại nếu muốn xâm lược Việt Nam thì hãy chuẩn bị tinh thần vì những người dân máu đỏ, da vàng sẵn sàng đấu tranh để giữ lấy sự bình yên non sông, độc lập nước nhà
- Là một ngọn lửa vừa được thổi bừng lên trong đêm tối và soi đường cho các dân tộc đang bị áp lức,bóc lột trên toàn thế giới noi theo và giành lấy sự độc lập cho mình.
- Là một thông điệp hòa bình mà cả dân tôc Việt Nam muốn gửi gắm đến toàn thể nhân dân trên thế giới
4. Nghệ Thuật :
- Chính Luận
- Hệ thống lý luận chặt chẽ, gây được sức thuyết phục cho người đọc
- Giọng văn linh hoạt, dứt khoát
Đọc thêm…

VỢ NHẶT - KIM LÂN

04:21 |
 Nhắc đến năm 1945, hẳn chúng ta nhớ ngay đến sự kiện lịch sử trọng đại và niềm vui của ngày khai sinh đất nước. Nhưng cũng xót xa nhớ về những đồng bào đã ra đi trong nạn đói khủng khiếp năm ấy. Trong truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân đã chọn bối cảnh những ngày cái đói bủa vây con người, nhưng ông không trực tiếp viết về cái đói đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào. Ông viết về những người đói, nhưng “họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống” với niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người và ước muốn sự sống sẽ được gieo mầm từ cái chết.



Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bây giờ - người chết đói như ngả rạ - mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ - tên Tràng - độc thân, chỉ với mấy câu “hò chơi cho đỡ nhọc”, đã có được cô “vợ nhặt” - đang sống dở, chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh “tối sầm lại vì đói khát”. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm. vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. "Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Ngay từ đầu, câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngã rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xôn xao lên được một lúc” còn bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ - những đứa bé hồn nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rủ, không buồn nhúc nhích...
“Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa” Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: “Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường”. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt hắn thì sáng lên lấp lánh”. Đọc đến đây, ta không thể không nghỉ đến những trang bi kịch của Sexpia, Molie hay Stăng-đan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có; nó cũng không phải là “hiện thân của sự ngu đốt” như Mác nói, mà trở nên sự cao cả “đẹp tươi lạ thường”. Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiếng nói mới, có sức mạnh.
Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một truyện lạ mà thú vị. Điều ấy đã khiến người dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng: “Họ bàn tán.. họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng dạng dỡ hẳn lên”. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói trong phút chốc khi Tràng cùng với cô “Vợ nhặt” đi về làng, cái chết, sự ảm đạm âm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống.
Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ cho sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau, sống qua được cái thì này không”. Tuy nhiên, đó không phải là nổi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh, đe doạ sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên trên cái chết. Khuôn mặt “rạng rỡ” của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.
Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh - điều đó thực đúng lắm thay!. Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng vô nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày chị đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn “không chuyện trò gì”. Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ dàng, “vô tư lự”. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái “liều” gặp nhau đã tạo nên " gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây. khi cùng người “Vợ nhặt” về nhà, Tràng đã bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc “hôn nhân" của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mất của họ không kém phần thảm hại: căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn... Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị vây bởi sự nghèo đói chết chóc.Nhưng, sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết..
Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn.
“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ...Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy...”. Đúng vậy. Niềm vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực: có vợ. Cái “mới mẻ”, “lạ lẫm” ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà - gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu...
Chỉ sau một đêm “nên vợ, nên chồng”, Tràng thấy mình có sự đổi khác: “Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ như không phải...”. Chuyện được “vợ nhặt” của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi “sáng hôm sau đó”, dường như tất cả sự chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: “Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, -phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này”...
Có thể nói, đó là biểu hiện cao nhât của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.
Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng và quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏn, văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật “khônng bình thường”! Nhưng không, ngòi bút Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật cùa mình bị tha hoá, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khí cái thúng”. Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ ngồi của chị không? Nhà này có phải chốn để chị dung thân?
Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: “trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiển hậu, đúng mực...” Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp đúng như bản chất liền trở lại với chị, ấy cũng là lúc chị nghĩ đến cuộc sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang... Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh...
Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: “Chao ôi, người la dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì...”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất: “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên...”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn:
“Tràng ạ. Khi nào có liền ta mua lấy đôi gà. Tau tin rằng cái chỗ đầu bên kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảng đi ngoảng lại, chà mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...”
Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua : thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đoạ, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần người đáng quý trong mỗi con người. Cái phần người ấy sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Sẽ lại thiếu sót nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của "bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đâu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đẫm chất nhân văn cao cả đã trở thành một tác phẩm xuất sắc của nền văn học cách mạng. Hiểu và cảm thông tận cùng người với người nghèo khổ ông xứng đáng là nhà văn của nông thôn và người nông dân. Vợ nhặt đã ươm được mầm sống, nó vươn lên từ cái chết. Tác phẩm sẽ còn mãi trong lòng người đọc như một bài ca về khái vọng sống mãnh liệt của con người Việt Nam.
Đọc thêm…

SÓNG - XUÂN QUỲNH

04:18 |
 Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: “Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi.” Thật vậy, từ ngàn đời nay tình yêu luôn là điều bí ẩn, là đề tài vô tận của văn chương. Nhiều văn nhân thi sĩ đã mượn văn chương để lí giải tình yêu nhưng chẳng ai cắt nghĩa trọn vẹn hai mĩ từ ấy. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví von “Yêu là chết trong lòng một tí”, Đỗ Trung Quân cũng từng thốt lên rằng “Anh đã thấy một điều mong manh nhất – Là tình yêu, là tình yêu ngát hương” và cũng không quên nhắc đến “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. “Sóng” là nơi gửi gắm những tâm tư sâu kín, những trạng thái phức tạp tinh vi của tâm hồn người thiếu nữ khi nói về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.



Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh sóng. Đó là một hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự phân thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. Cùng với hình tượng sóng, bài thơ còn có hình tượng Em. Hai nhân vật trữ tình này có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hòa nhập vào nhau tạo nên một âm vang. Xuân Quỳnh thật tài tình khi sáng tạo hình tượng sóng giàu giá trị thẩm mĩ để diễn tả tâm trạng, tình cảm với nhiều cung bậc sắc thái của một trái tim phụ nữ khao khát tình yêu và hạnh phúc.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Bắt đầu bài thơ là hình ảnh sóng nước. Đó là con sóng lúc thì dữ dội, ồn ào có thể phá tan tất cả trong những trận cuồng phong, nhưng lúc trời yên gió lặn thì sóng lại dịu êm, lặng lẽ. Sóng là vậy đấy, dữ đấy rồi êm đấy, chợt ồn rồi chợt lặng, sóng luôn biến đổi muôn hình vạn trạng. Nhưng có ai đã từng hỏi vì sao sóng lại thế? Vô ích thôi, đến ngay sóng cũng chẳng hiểu nổi mình, chỉ biết đó là những tâm trạng thường có. Sóng bối rối, trăn trở, sóng muốn hiểu được mình nên đã tìm ra tận bể, tìm ra tận nơi mênh mông rộng lớn, sâu thẳm vô cùng. Sóng nghĩ ở nơi như thế may ra sóng mới có thể hiểu mình.
Sóng nước mà cũng có những tâm trạng như con người vậy sao? Phải chăng mượn sóng là để làm biểu tượng cho người con gái? Miêu tả sóng với những đặc điểm kì lạ cũng là để nói tới cái đa dạng phức tạp, khó giải thích của người con gái mà đúng hơn là của tình yêu. Thế là sóng nước đã dần chuyển thành sóng tình. Giống như sóng, tình yêu là một khái niệm khó giải thích cho minh bạch. Tình yêu là vậy và khát vọng tình yêu của con người thì muôn đời không thay đổi
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Sóng ngày xưa thế nào thì sóng ngày nay vẫn thế. Sóng nước là thế và sóng tình cũng chẳng khác gì. Tình yêu từ ngàn đời nay chẳng hề bất di bất dịch, đó là một quy luật của tự nhiên. Tình yêu không bó hẹp trong một phạm vi lứa tuổi nhưng tình yêu thường đi đôi với tuổi trẻ. Ở lứa tuổi mùa xuân của đời người, tình yêu phát triển mạnh mẽ nhất và mang đầy đủ ý nghĩa nhất. Tình yêu tràn đầy sức sống, làm bồi hồi trái tim trong ngực trẻ khiến trái tim lúc nào cũng thổn thức nhớ mong.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
…………
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Sóng tìm ra tận bể để hiểu mình thì em đây cũng tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người của em. Trước không gian bao la là biển cả, làm sao em không trăn trở với những câu hỏi có từ ngàn xưa, những câu hỏi vượt qua bao không gian thời gian, những câu hỏi giản dị, tự nhiên nhưng khó lí giải. Tất cả chúng như quấn lấy tâm hồn em làm cho em thao thức khôn nguôi. Em tự hỏi, giữa đại dương mênh mông ấy nơi nào là nơi bắt đầu của sóng? Khó mà trả lời cho chính xác nhưng vẫn có thể trả lời rằng “Sóng bắt đầu từ gió”. Vâng, không thể phủ định được điều đó, có gió mới có sóng thế nhưng “Gió bắt đầu từ đâu?” Lúc này thì khó mà trả lời được. Thế là ra tới tận bể rồi ấy vậy mà sóng cũng vẫn chưa hiểu nổi mình. Cũng như sóng, em đã hòa nhập vào biển lớn của tình yêu anh mà em nào đã hiểu được em. Em yêu anh từ đâu? Khi nào? Từ cái gì? Ánh mắt, nụ cười hay giọng nói? “Em cũng không biết nữa”. Mà biết để làm gì bởi anh và em chỉ cần hiểu rằng ta yêu nhau là đủ.
Trong tình yêu, ta vẫn thường thấy hai mặt yêu và nhớ, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước” là những cung bậc khác nhau của nỗi nhớ anh. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì con sóng vẫn đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, là đối tượng để sóng vuốt ve, vỗ về, là cái đích để đi đâu về đâu sóng lúc nào cũng nhớ đến, cũng không quên, ngay cả đó là ngày hay đêm: “Ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ có cái biểu hiện ra bên ngoài có cái ẩn chứa tự sâu trong đáy lòng. Vắng anh, em nhớ, khi thức, em nhớ đến anh. Đó là biểu hiện bình thường. Nhưng ở đây, trong mơ em vẫn nhớ. Đó là nỗi nhớ mới da diết, khắc khoải, thổn thức cứ trằn trọc không yên: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Tình yêu là vậy đấy!
Xưa nay, nỗi nhớ luôn gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô cùng. Với thời gian, nó không có ngày đêm; với không gian, nó không có phương hướng. Không gian có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng tình yêu thì chỉ có một phương và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn hẳn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh. Chỉ riêng anh là khiến em luôn nghĩ tới và hướng về: “Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh một phương”. Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưởi ấm cho nhau.
Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không tránh khỏi những dâu bể của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời với niềm tin sẽ tới đích.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh như ông bà xưa có câu:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.
Đẹp là thế, thiêng liêng là thế nhưng tình yêu cũng lại là thứ ngắn ngủi, mong manh và khó giữ.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Bởi thế khi yêu con người luôn khắc khoải, trăn trở. Nỗi trăn trở đã thành bức bách, thôi thúc: Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ trong đại dương bao la, vô tận kia để được tồn tại mãi, sống mãi và yêu mãi. Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng thơ vừa dịu dàng vừa sâu lắng vừa dữ dội lại vừa thiết tha. Nhớ tới chị chúng ta càng thêm trân trọng những thi phẩm đặc sắc của chị. Cùng với “Thuyền và biến”, “Sóng” là những bài ca không thể nào quên của tuổi trẻ và tình yêu. Xin cảm ơn nữ thi sĩ đã hiến dâng cho đời những vần thơ đẹp về tình yêu con người và cuộc sống.
Đọc thêm…

Bình Giảng - Những Đứa Con Trong Gia Đình

03:50 |
 Đã có một lần nào, tôi thử điểm lại trong trí nhớ của mình tên những tác phẩm chính của Nguyễn Thi: Người mẹ cầm súng, Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình, Những sự tích ở đất thép, Ước mơ của đất, Chuyện xóm tôi, Ở xã Trung Nghĩa… Để rồi sực nghĩ ra rằng: hình như làm nên một Nguyễn Thi trong nền văn học của chúng ta không phải là cảm hứng về những gì lạ lẫm, xa vời, bay bổng, mà là Mẹ, là Đất, là Quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà, thân thiết với đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người. Đọc Nguyễn Thi, thấy tác phẩm của ông nồng nàn hơi thở thô phác, ấm áp và mạnh mẽ của đất đai, những nhân vật của ông cắm chắc vào đời sống, luôn luôn lăn lộn trong gian nguy vất vả, da dẻ cứ đỏ au lên vì nắng gió, khẩu súng lúc nào cũng ấm tay người và áo quần dường như vẫn đẫm chất mồ hôi mặn mòi, khét cháy.



Có thể bởi vậy mà khi nghĩ đến Nguyễn Thi, trong óc tôi thường cứ hay hiện về một ý thơ của Nadim Hikmet:
Làm đám mây rất thích
Làm con chim lại càng thích hơn.
Nhưng tôi vui sướng được làm con người,
Và cái yêu thích nhất của tôi là đất,
… Hễ cứ rời xa mặt đất là một nỗi buồn xâm chiếm lấy tôi …
Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Phẩm chất anh hùng, có thể nói, luôn có mặt ở các mức độ khác nhau trong hầu như tất cả các nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông. Nhưng đó là kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và rất lắm khi chất anh hùng lại bộc lộ ra qua những biểu hiện đến là thơ ngây, ngộ nghĩnh.
Có cảm giác như, khi tìm cách lí giải, cắt nghĩa phẩm chất anh hùng của con người, Nguyễn Thi đã rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật này: người anh hùng đó là sản phẩm sinh ra từ thời đại. Nhưng người anh hùng lại không chỉ là sản phẩm của thời đại mà thôi. Đọc Nguyễn Thi, ta thấy rõ: phẩm chất anh hùng của họ còn phải được hiểu như sự tiếp nối một nguồn cội, một nếp nhà, còn phải được xem như là truyền thống, là di sản, một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh đã truyền lại, đã bàn giao lại cho lớp cháu con. Tôi thấy Nguyễn Thi hình như không muốn chia sẻ với loại cảm hứng thiên về khai thác những xung đột lí tưởng giữa những con người trong một gia đình hay dòng họ. Hứng thú nghệ thuật của ông dồn cả cho kiểu gia đình như gia đình chị Út trong Người mẹ cầm súng và nhất là trong Mẹ vắng nhà, ở đó, người mẹ đã đem lại cho đứa con không chỉ một hình hài mà còn là một tấm gương về cách sống.
Nhưng ở vị trí trung tâm của Mẹ vắng nhà đang là những đứa trẻ còn rất nhỏ và còn chưa rời khởi mái nhà của cha mẹ. Vấn đề sẽ có ý nghĩa nhiều hơn trong một truyện ngắn khác, cái truyện ngắn mà giờ đây ta bàn tới, truyện Những đứa con của gia đình.
Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên đã bước sang lứa tuổi mười tám đôi mươi, đã trở thành những chiến sĩ xông pha trận mạc, và đã lập chiến công. Hai chị em Chiến, Việt – tên những thanh niên ấy – đã từng bắn giặc trên sông Định Thủy. Riêng Việt, cậu em trai, còn “diệt được một xe đầy Mĩ với sáu thằng Mĩ lẻ” trong một trận đọ lê đẫm máu. Vậy mà trong tác phẩm, Nguyễn Thi vẫn thể hiện họ trong tư cách những đứa con. Họ quả có được miêu tả trong quan hệ với anh em đồng đội: anh Tánh, anh Công… Thế nhưng họ vẫn được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.
Còn một điểm khác nữa giữa truyện ngắn này với truyện Mẹ vắng nhà mà ta vừa nhắc đến: ở đây, được nói tới như những đứa con trong gia đình lại là Chiến, Việt, những người mà gia đình thực đã không còn nữa: cha mẹ đều đã hi sinh, ngôi nhà cũ đã nhường để làm trường học, bàn thờ má phải gửi sang nhà khác, và bản thân thì đang chiến đấu ở nơi xa… Nhưng ngay cả với những người như thế, hình ảnh của gia đình, những kí ức về gia đình, những tình cảm với gia đình và những truyền thống mà họ là lớp người kế tục… tất cả vẫn sống như là một thực thể, một nguồn sinh lực nuôi dưỡng tinh thần, một nguồn sáng soi đường cho con người cảm xúc, nghĩ suy, hành động.
*
* *
Những đứa con trong gia đình có một lối tự sự mang khá nhiều nét riêng. Câu chuyện được thuật lại không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man đứt nối của Việt, vào lúc người chiến sĩ trẻ ấy bị thương sau cuộc đọ lê, cứ liên tục ngất đi rồi tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có mình với mình giữa một chiến trường mênh mông đầy bóng tối – bóng tối của màn đêm và bóng tối do mắt Việt bị thương nên không thể nhìn thấy gì ở bên ngoài.
Khi chọn kiểu kể chuyện này không rõ tác giả có nghĩ đến và có chịu ảnh hưởng gì của lối viết theo “dòng ý thức” của tác giả bộ Đi tìm thời gian đã mất hay không. Nhưng lối thuật chuyện mà Nguyễn Thi đã chọn quả có giúp tác giả dễ dàng cất bỏ những tấm vách ngăn giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đang ở trước mặt và cái đã thành kỉ niệm xa xưa, giữa những chi tiết thoáng đến thoáng đi, tưởng chứng như bâng quơ, như ngẫu nhiên, với những tư tưởng tình cảm lớn lao, trọng đại.
Hãy dõi theo một đoạn văn nào đó, chẳng hạn như cái đoạn bắt đầu từ câu: “Việt tỉnh dậy lần thứ hai lúc trời lất phất mưa”. Tiếng máy bay, tiếng động duy nhất mà Việt nghe thấy trên một bãi chiến trường đã trở nên vắng lặng từ lần tỉnh đầu tiên, bây giờ đã tắt hẳn rồi. Chỉ còn tiếng “ếch nhái kêu dậy lên”. Âm thanh ấy dẫn Việt trở lại những ngày còn chưa đi bộ đội, những đêm trời vừa dứt mưa, hai chị em lóp ngóp ra đồng soi đèn bắt ếch. “Cười từ lúc đi cho đến lúc về”. Mạch liên tưởng miên man tràn đến chú Năm, vì “khi để ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Rồi ý nghĩ lại đi từ “Việt thương chú Năm…” lần lần chuyển qua cuốn sổ gia đình mà chú vẫn ghi đều đặn, và những gì cuốn sổ ấy gợi lên. Đến đây, dòng ý nghĩ chợt đứt, vì Việt lại ngất đi. Đoạn văn tiếp liền sau cũng thế. Nó mở đầu đột ngột với câu: “Việt choàng dậy”. Ta sẽ không còn gặp ở đây tiếng ếch kêu đêm. Chỉ có, trong buổi ban ngày, tiếng chim cu rừng gù gù đâu đó. Tiếng chim gợi nhớ chiếc ná thun. Và chiếc ná thun, đến lượt nó, thật không ngờ mà cũng thật tất nhiên, đưa Việt về với những kỉ niệm về người mẹ, thoạt đầu là khi mẹ mất, rồi mới ngược dần về những ngày mẹ còn sống với đàn con, về đôi mắt mẹ “sắc ánh lên nhìn bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”. Đến đúng khúc thiêng liêng ấy, mạch văn đột nhiên bị ngắt giữa chừng, vì Việt lại bị ngất đi lần nữa.
Cứ thế, dòng tâm tư trong truyện chảy trôi, khi đến gần bờ hiện tại, khi lại lượn xa tắp về quá vãng, nhịp trôi khi chậm khi nhanh, khi liền khi đứt. Tâm trạng con người hiện lên chân thật, tự nhiên, bởi nó vốn dĩ vẫn như thế trong đời sống. Nhưng chính nhờ qua cái tổ chức lại, cải tạo lại, những khoảng thời gian rất xa nhau bây giờ đồng hiện bên nhau, những khối không gian rất cách biệt nhau bây giờ tồn tại cạnh nhau; đời sống như được soi chiếu dưới một thứ ánh sáng khác, nó hiện lên trong nhiều màu vẻ phong phú, bất ngờ.
Nhưng ưu điểm của lối thuật chuyện theo dòng kí ức vừa liên tục vừa gián đoạn như đã nói ở trên không chỉ thể hiện ở chỗ nó làm cho kết cấu của truyện ngắn thêm linh hoạt, thêm sống động, thêm những ngã rẽ, những khúc quanh người đọc không dễ dự kiến ra. Không chỉ có thế. Bởi không nên quên rằng nhà văn đã để cho nhân vật Việt của mình hồi tưởng trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa vắng lặng đến ghê sợ, và giữa sự rình rập của hiểm nguy và của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Hãy đọc lại truyện để xem Nguyễn Thi đã viết hay đến thế nào về “cái cảm giác một mình bật lên” thật rõ ràng, giữa một cái mênh mông đầy đe dọa trong một chàng tân binh trơ trọi, hai mắt không còn nhìn thấy gì, tay đau không thể quẹo ra sau mà lấy bình nước trong khi người đã khô khốc đi vì đói khát, mười ngón tay không còn ngón nào kéo nổi cơ bẩm súng, lết người đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Và nếu cái “bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” trong cánh rừng cao su vừa trải qua trận đọ lê dữ dội kia thỉnh thoảng có bị phá vỡ thì cái phá vỡ nó lại là “tiếng trực thăng phàng phạch bay từng bầy trên đầu”, tiếng “pháo bầy nổ càng gần hơn”, “tiếng xe bọc thép ào ào chạy qua hướng trước mặt”.
Vào một lúc như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc chắn người ta sẽ nhớ lại, và cũng sẽ chỉ nhớ lại những gì gắn bó thân thiết nhất, những gì đã thực sự làm nên đời sống của bản thân mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt trong thế đối mặt với cái chết và đối diện với bản thân, chỉ nghĩ nhiều nhất, lâu nhất đến những người trong gia đình (chị Chiến, má, chú Năm…), tác giả đã tìm được một cách thức nghệ thuật hữu hiệu để chứng tỏ rằng: gia đình, đó là phần nguồn cội thấm sâu nhất của con người ấy, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng vì nó đã hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.
Như thế, kiểu kết cấu theo dòng chảy của một quá trình hồi tưởng là một công phu sáng tạo về hình thức. Nhưng ý nghĩa nghệ thuật của sự sáng tạo hình thức ấy lại ở chỗ nó góp phần đắc lực nhất trong việc biểu hiện những khám phá về mặt nội dung.
*
* *
Nếu phải chọn trong truyện ngắn này của Nguyễn Thi một câu văn nào cô đúc được tư tưởng cơ bản của toàn thiên truyện thì tôi sẽ xin được dẫn ra câu nói của chú Năm: “… Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Tôi muốn hiểu câu nói này trên hai ý nghĩa. Thứ nhất, chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi vào được, ai đã làm nên được khúc của mình trong dòng sông truyền thống. Con, đó là sự tiếp nối, nhưng không chỉ là sự tiếp nối một huyết thống, mà còn là sự tiếp nối một truyền thống. Nhưng còn một ý nghĩa thứ hai: không thể hiểu khúc sau của một dòng sông, nếu không hiểu ngọn nguồn đã sinh ra nó. Cũng tương tự vậy, ta chỉ có thể hiểu về những đứa con của một truyền thống gia đình khi, và chỉ khi ta hiểu ít nhiều về chính cái truyền thống gia đình đã sinh thành ra những đứa con.
Trong truyện, cái truyền thống ấy không kết tinh ở nơi đâu đấy đủ hơn là trong hình tượng Chú Năm. Đọc truyện, tôi thấy thích ông già này trước hết vì thứ ngôn ngữ đầy cá tính của ông. Một thứ ngôn ngữ chỉ cần nghe thoáng qua đã nhận ra ngay cái chất Nam Bộ không thể nào trộn lẫn. Nhưng có lẽ phải đợi tới khi qua miệng của chú Năm thì những từ Nam Bộ như trọng trọng, thỏn mỏn mới được dịp trở nên cực thú. Truyện kể rằng chú Năm là người “đi đây đi đó nhiều” và cũng “ham sông ham bến”. Nhưng đọc Những đứa con trong gia đình, ta thấy nhân vật này không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người sống giữa thời chống Mĩ này, vẫn thấy phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu thuở xa xưa. Và điều đó được nhận ra vẫn chủ yếu là qua lời nói: “Chú Năm nói mầy với ta đi kì nầy là ra chân trời mặt biển…” – đấy là Chiến nhắc lại lời của chú Năm. Còn đây là lời nói trực tiếp của ông già ấy: “Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Những câu nói như thế này đặc sắc bởi đâu, nếu không phải bởi trong chúng ta nghe thấy âm vang của sóng nước và của đạo lí nghìn xưa.
Nguyễn Thi đã trao cho tính cách thú vị này vai trò của một thứ gia phả sống. Đọc truyện, ta sẽ thấy rõ rằng nhân vật này luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống trong câu hò và cuốn sổ. Trong toàn truyện chỉ có chú Năm là người duy nhất hay hò. “Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu… những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Nhưng nhà văn muốn loại trừ ngay trong ta mọi vấn vương, dù nhỏ, của cách hiểu rằng cái người hay hò này ít nhiều cũng là một tài năng nghệ thuật. Trong chú Năm, không hề có chút bóng dáng nào của Trương Chi. “Chú già rồi, giọng hò đã đục và tức như gà gáy”. Nhưng hãy xem con người có cái giọng “đục và tức” nọ hò mới thật hết mình, thật trang nghiêm, tha thiết làm sao! “Gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắc nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể chú gửi gắm những câu hò…”. Thì ra, những tấm áo vá quàng, con sông dài cá lội, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công… Không chỉ đơn thuần là những câu ca réo rắt mà là ngọn nguồn, là hồn thiêng của cha ông đang nhập vào chú Năm – người ca công thành kính – để truyền đến đời đời con cháu.
Song tôi vẫn nhớ cho là trong toàn bộ phần viết về chú Năm thì đoạn văn nói về cuốn sổ gia đình vẫn hay hơn, tài hơn tất cả. Gọi là cuốn sổ, nhưng nó thực là một thứ biên niên ấy được viết ra từ một ngòi bút thực sự bình dân, “chữ viết lòng còng”, lời văn mộc mạc. Một cuốn sử hay một cuốn gia phả “chính thống” chắc sẽ không có những chi tiết “thỏn mỏn” kiểu như: thím Năm bị bắn bể xuồng khi đi rọc lá chuối, “chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”; ông nội ra nắm giàm bò bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng… Lại càng không có cuốn gia phả nào ghi kĩ càng đến ngày bọn lính chửi bác Hai một câu, ngày bà nội bị chúng đánh (thậm chí còn cặn kẽ đến mức: đánh ba roi!). Lời lẽ trong cuốn sổ của chú Năm có vẻ đúng là những sự kể lể dài dòng và cứ như không thèm biết thế nào là thanh nhã và trau chuốt. Nhưng xin hãy thử tẩn mẩn và dông dài như thế xem nó khó hơn hành văn gọn gàng đẽo gọt gấp mấy lần? Và hãy thử bỏ những câu chữ mà ta vẫn nông nổi tưởng như thừa, tưởng như không đáng kể, đáng viết xem, cuốn sổ ấy sẽ còn gì? Mất cái chất vụng về, thô mộc đó, chắc chắn những gì chú Năm viết ra sẽ không còn giá trị của những bằng chứng nóng hổi về nợ máu của kẻ thù và về sự dũng cảm, kiên cường của dòng họ trong chiến đấu.
Hình tượng người mẹ cũng là một hiện thân cho truyền thống. Đây là một hình tượng mang những dấu ấn riêng của phong cách Nguyễn Thi. Thiết nghĩ rằng, dù thích hay là không thích mặc lòng, chúng ta vẫn không thể không nhận rằng Nguyễn Thi đã tạo được cho những người phụ nữ, người mẹ trong tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng biệt, không giống ai và cũng chưa ai giống nổi. Đừng mong chờ tìm thấy ở Nguyễn Thi một người mẹ đẹp một vẻ đẹp mảnh mai yếu đuối. Ngược lại, họ chắc khỏe về mặt thể chất và mạnh mẽ về mặt tinh thần. Người mẹ của Việt trong truyện ngắn này cũng thế. Chị được sinh ra không để hưởng sự chiều chuộng, vuốt ve, mà để chống chọi với gian nguy, khó nhọc. Cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc, dư sức một mình rinh thúng lúa từ dưới thuyền đặt lên giường ngủ – đó là vài nét họa trong bức chân dung người mẹ trong truyện ngắn này. Tuy nhiên, đấy vẫn là một con người rất phụ nữ. Phụ nữ ở sự tảo tần, xốc vác: sáng sáng, câu dặn dò con vừa hối hả buông khỏi miệng thì chân đã vội đẩy xuồng ra tít giữa sông. Chiều về, cái nón rách có dễ chưa kịp quạt cho khuôn mặt bớt đi một hai phần đỏ rực, lại đã bơi đi, canh hai mới trở lại nhà, người sực mùi lúa gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù sương nắng.
Nhưng ấn tượng đậm đà và có sức gây cảm động lòng người nhiều hơn ở cả con người ấy là khả năng cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, để chở che cho đàn con và tranh đấu. Tôi cho đó mới là phẩm chất đích thực cao quý của người mẹ, chí ít thì cũng là của người mẹ của một đất nước như đất nước mình, và của một thời như thời chống Mĩ. Là người mẹ, tức là trở thành một sức mạnh mà không một tàn bạo, đau thương nào hòng khuất phục. Người mẹ của chị em Chiến, Việt chính là như thế. Chồng bị giặc chặt đầu, nỗi đau ấy khác gì dao cứa ngang tim, nhưng chị cố không để rơi nước mắt. “Chiều hôm đó, về tới nhà má mới khóc… Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên má cũng không khóc”. Và nếu lệ cứ ứa ra, thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể gì hết”. Đau thương ấy, người mẹ một mình nuốt sâu vào đáy lòng, để lặng lẽ một mình chịu đựng sức thiêu đốt của một nỗi đau âm ỉ cháy. Đấy mới đúng là người mẹ Việt Nam, con người vì tình yêu, sẵn sàng một mình chịu đau, một mình chịu ướt.
Người mẹ nông dân bình dị đó, cũng như mọi người mẹ, đúng là hiện thân của yêu thương. Nhưng cảm hứng của Nguyễn Thi về tình yêu người mẹ thường vẫn là cảm hứng về một tình cảm có sức khiến con người không biết sợ, không biết chùn bước. Không thể không cảm động khi đọc lời chị kể hồn nhiên: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngòai, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ”. Ai ngờ truyền thống “yêu nhau tam tứ núi cũng trèo…” có ngày lại hiện ra dưới hình thức đau đớn, dữ dội, bạo liệt thế này? Một người vợ bồng con cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, một người mẹ hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân”…, những hình ảnh ấy đáng được coi như biểu tượng về người mẹ ở một xứ sở mà cuộc sống quá nhiều khốc liệt nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.
Kiên cường, cao cả vì dưới một núi khổ đau, người mẹ ấy vẫn là sự sống: đôi mắt mở to, đôi bắp chân tròn vo dính đầy sinh đất lội hết đồng này sang bưng khác, “con mắt tìm việc, bàn chân dò đường”, vừa làm công cấy công gặt vừa dò tình thế bọn lính làng.
*
* *
Một hình ảnh, một truyền thống như thế, tác giả muốn phải là bất tử, cho dù con người cụ thể có phải hi sinh. Người mẹ ngã xuống, nhưng trái đạn mà chị nhặt vào rổ bưng về để tiếp sức cho cuộc đấu tranh thì vẫn nóng nguyên. Người mẹ ngã xuống, nhưng dòng sông truyền thống kia vẫn chảy. Và hình ảnh chị lại hiện về trước hết trong Chiến, một trong những đứa con của gia đình.
Người con gái trẻ ấy mang vóc dáng của mẹ mình: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…, thân người to và chắc nịch”. Vẫn cái vẻ đẹp phụ nữ mà Nguyễn Thi ưa thích đang tồn tại trong đứa con mà người mẹ ấy đã sinh thành – vẻ đẹp của những con người sinh ra ở đời để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Nhưng nói đến giống mẹ thì chưa bao giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội. Phải đến đêm ấy, người ta mới thấy một cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, giường ván, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má. Chiến liệu việc y hệt má, “nói nghe in như má vậy”. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng Út em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị mình giống in người mẹ, có sai khác thì cũng chỉ ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế chân mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu: trong cái thời điểm thiêng liêng ấy, người mẹ sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt…”. “Thác là thể phách…”, người mẹ ấy chỉ thác trong thể phách.
Ta hãy trở về với Chiến. Hơn em chỉ chừng hơn một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn so với Việt. Mà cũng gắn bó với lớp người đi trước hơn. Chiến có thể bỏ ăn để gánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ “nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng trọng” của chú Năm. Nhưng so với thế hệ mẹ thì người con gái ấy là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước đó. Cho nên cũng dễ tìm ra những nét khiến cho Chiến khác mẹ mình. Cái khác ấy không chỉ ở chiếc gương trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai vào miệng” hay là tính hay cười. Người mẹ, trước nỗi đau mất chồng, đã không có dịp nào cầm súng. Còn Chiến, Chiến đi bộ đội để trả thù nhà, với quyết tâm như dao chém đá: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. “Đã làm thân con gái…”, ra ở đời này không chỉ có “chí làm trai”.
Ở trên, ta đã nhiều lần nhắc đến nhân vật Việt, hình tượng xuất hiện nhiều nhất trên những trang văn. Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư của một câu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy nhiêu. Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”. Vào bộ đội, Chiến đem theo tấm gương soi – cái vật tùy thân của một cô gái lớn – còn Việt, anh chàng đem đi… một chiếc súng cao su! Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần đoạn đối thoại dài nhất và xuất sắc nhất trong toàn thiên truyện, và càng đọc càng thấy chịu tài tác giả. Sao mà ông có thể tái hiện lại sống đến thế lời ăn tiếng nói của một anh chàng tồ tồ, vô lo vô nghĩ. Những lời đối thoại ấy không câu nào giống câu nào mà sao câu nào cũng trúng phóc cái thần hồn thần tính của anh chàng Việt.
Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở nên một anh hùng. Ngược lại, nó cho cái chất anh hùng của Việt thêm đẹp, thêm độc đáo. Đọc truyện, ta cảm thấy hình như chưa lúc nào Việt hết thơ ngây của một con người không biết thế nào là khuất phục. Nên từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Và vẫn dòng máy đỏ chảy trong anh tân binh Việt chỉ khi một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn vẫn quyết tâm ăn thua sống mái với quân thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, người trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc nó cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun, việc đánh giặc cho kỳ đến lúc trả xong thù nhà nợ nước nó là chuyện dĩ nhiên như thế, có gì đâu để mà bàn, để mà nghĩ ngợi…? Ấy thế mà xem ra Việt lại là người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống. Không chỉ vì Việt là người lập chiến công lớn nhất. Mà còn vì thế hệ cha chú Việt đánh giặc đấy, nhưng vẫn lo tránh giặc. Còn Việt, ngay khi chỉ có một tấm thân trơ trọi và đầy thương tích, Việt vẫn là người đi tìm giặc. “Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Hồi bấy giờ, người ta thường nói đến khí thế tiến công cách mạng của thời đại. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.
Tôi sẽ không nói nhiều về đoạn văn vẫn được nhiều người cho là hay nhất truyện: đoạn tả chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ mẹ, sang nhà chú. Chỗ hay nhất của đoạn văn hay nhất ấy có lẽ là cái không khí thiêng liêng nó hoán cải cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng thấy có thêm mùi hoa cam thoảng lại tự chân vườn. Còn Việt, cái không khí ấy biến anh thành con người khôn lớn. Lần đầu tiên Việt hiểu rõ lòng mình để thấy “thương chị lạ” và để thấy “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Nhưng tôi muốn được để ý thêm đến chi tiết: chị em Chiến, dáng vóc khỏe, to, giang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức để bay xa, xa hơn cha mẹ.
*
* *
Nhân vật chú Năm trong truyện sau khi ví chuyện gia đình dài như dòng sông, còn nói tiếp: “Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm…, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.
Điều đó có nghĩa là Nguyễn Thi, ở truyện ngắn này, chỉ nói về một con sông, nhưng chúng ta không thể chỉ thấy có một dòng sông. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân, và nhân loại. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến không chỉ một gia đình, mà cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.
Chỉ có điều ở Nguyễn Thi, sự khái quát lớn lao trên sẽ không bay bổng trên đôi cánh của cảm hứng thi ca. Nhà văn muốn đứng trên hai bàn chân bấm chắc vào đất, vào hiện thực. Từ bỏ mọi sự khoa trương, nhà văn hết sức cố gắng để chi tiết, hình ảnh, ngôn từ… tất cả phải giống như nó vốn có ở đời, dẫu cho sự thực ở đời lắm khi tàn nhẫn. Bởi vậy, tôi sẽ không hùa theo ai đó trách Nguyễn Thi đã dựng lên những chi tiết ghê khiếp quá, như cảnh đòi đầu, với hình ảnh thằng bé Việt để “đầu ba dưới đất không lượm, cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một hình ảnh như thế quả đáng để cho ta suy nghĩ, nhưng tuyệt nhiên không phải vì nó dữ dội, kinh khủng nếu đấy đúng là thực tại? Chỉ có là hình ảnh ấy hình như gợi lên một cái gì bất nhẫn. Nhưng đó lại là câu chuyện khác Rồi
Đọc thêm…